Bàn ba đứa, con Xin ngồi sát tường, rồi tới tôi, rồi mới tới thằng Sơn. Nếu len vào chỗ theo thứ tự lâu nay, tôi sẽ ngáng đường thằng Sơn.
Đó là lý do tôi đi tụt lại phía sau, mắt bám chặt con “chim xanh” từng giây một.
Tôi tưởng thằng Sơn sẽ lúng túng ghê lắm, nào ngờ nó “làm nhiệm vụ” nhanh nhoay nhoáy. Nó rút lá thư trong túi áo ra, ném xoẹt ngay trước mặt con Xin, hất hàm, giọng cụt ngủn:
- Của mày nè, Xin!
- Thư gì vậy? - Con Xin rụt rè nhìn lá thư.
- Thằng Thiều gửi cho mày đó.
Nói xong, thằng Sơn lật đật lui ra, nhường lối cho tôi vô. So với nỗi vất vả của Tường khi đưa thư giúp chú Đàn, công sức thằng Sơn bỏ ra trong chuyện của tôi bé như hạt cát. Thái độ của nó lại lấc ca lấc cấc trông chả ra làm sao. Việc một đứa con trai lần đầu gửi thư cho một đứa con gái ý nghĩa trọng đại là thế mà cử chỉ của nó ngang phè phè, lời ăn tiếng nói thì cứ như dấm vào tai người nghe.
Nhưng tôi không có thì giờ để tiếc mấy viên bi ve.
Tôi len lén ngồi vào chỗ, không dám nhìn con Xin. Nhưng qua khóe mắt tôi vẫn hồi hộp theo dõi nó và gần như nín thở khi thấy nó sè sẹ mở phong bì rút lá thư ra đọc.
Tất nhiên tôi hoàn toàn không biết được con Xin sẽ làm gì sau khi đọc hai câu thơ tôi viết cho nó. Tôi còn quá bé để có thể hình dung những bước đi của một câu chuyện tình, nếu lá thư của tôi có thể mở ra một chuyện tình bé con.
Tôi chỉ bắt chước chú Đàn. Và chỉ bắt chước nửa vời.
Tôi copy bài tạp tình yêu của chú, nhưng chỉ copy được phần nhập đề. Phần thân bài và phần kết luận bị chú lấy tay che mất. Do đó, tôi không đoán được những diễn biến tiếp theo. Tôi vẩn vơ nghĩ: Chắc là con Xin sẽ viết cái gì đó trong mẩu giấy và gửi lại cho tôi?
Tôi nghĩ và nghĩ, véo môi và véo môi. Tôi phỏng đoán con Xin sẽ làm thế này hoặc làm thế kia. Tôi mường tượng đến cả hậu quả tệ hại nhất: con Xin sẽ vò lá thư thành một quả cầu giấy và ném vào mặt tôi.
Tôi nhấp nhổm trên băng ghế, tưởng tượng lan man đủ thứ. Trừ một thứ tôi không tưởng tượng nổi: Con Xin không chửi tôi, cũng không ném trả lá thư vào mặt tôi, nó cầm lá thư bước ra khỏi chỗ và đi thẳng lên bàn thầy. Xui một nỗi, lúc đó lớp tôi đang học giờ văn của thầy Nhãn cộc tính.
Kết quả đến nhãn tiền: Thầy Nhãn kêu tôi lên bảng và trước những cặp mắt tò mò của lũ bạn, thầy bẹo tai tôi đau điếng, gần như xách hẳn người tôi lên khiến tôi suýt rớt cả tai, răng nghiến ken két:
- Yêu với chẳng đương! Làm tập làm văn chính tả còn viết sai be sai bét mà bày đặt lăng nhăng!
17. Em ơi nếu mộng không thành thì sao?
Sau tai nạn đó, tôi giận con Xin cả tháng trời.
Vô lớp tôi không nhìn mặt nó, nói chuyện lại càng không. Ngồi chép bài, nó vô tình chạm khuỷu tay tôi, tôi lập tức hất tay nó ra một cách lạnh lùng, thô bạo.
Tôi cũng không đến nhà nó chơi nữa, dù nhà nó có cái sân phơi thóc lớn gần bằng cái sân gạch nhà chị Vinh. Đó là một trong hai sân chơi của bọn trẻ con trong làng. Những đêm trăng sáng, nếu không qua nhà chị Vinh, tôi và lũ bạn lại tụ tập ở sân nhà con Xin chơi u, chơi bịt mắt bắt dê, chơi cướp cờ, chơi thả đỉa ba ba… đến khuya lơ khuya lắc, lần nào cũng đợi ba mẹ xách roi đi tìm, tụi tôi mới co giò chạy tứ tán và men theo các bờ giậu chuồn về nhà.
Con Xin biết tôi giận nó, nó buồn lắm.
Thỉnh thoảng liếc qua bên tay phải, tôi hả hê thấy mặt nó như sắp khóc, những nốt tàn nhang lấm tấm trên gò má nó như đang run lên.
Đôi lúc nhìn vẻ thẩn thờ của nó, lòng tôi không nén được cảm giác nao nao nhưng tôi nhất quyết không chịu làm hòa.
Lúc tôi vác bộ mặt đẫm nước mắt quay về chỗ ngồi sau khi bị thầy Nhãn trừng phạt, con Xin đã lo lắng quay sang tôi, giọng ngập tràn hối hận:
- Mình xin lỗi bạn nhé. Mình không ngờ thầy Nhãn lại phạt bạn.
- Xin lỗi cái đầu mày! - Tôi điên tiết - Mày nghĩ sao mà đem lá thư của tao nộp cho thầy vậy hả?
- Mình có nghĩ gì đâu. Mình tưởng bạn chọc phá mình nên mình méc với thầy thôi.
- Mày đui hả? - Tôi càng cáu - Tao chọc phá mày hồi nào?
Con Xin sợ xanh mặt, chắc nó thấy quai hàm tôi bạnh ra như sẵn sàng nhai xương nó. Nó cụp mắt xuống, ấp úng:
- Thế bạn gửi lá thư đó cho mình làm gì?
Tới đây thì tôi tắc tị. Tôi không biết phải giải thích với nó như thế nào. Tôi đoan chắc chị Vinh không bao giờ hỏi chú Đàn một câu ngu ngốc như thế.
- Mày đúng là đồ con nít! - Cuối cùng, tôi thở hắt ra, giận dỗi tuyên bố - Tao không chơi với mày nữa!
Đúng ra thì tôi không giận con Xin lâu như thế. Tôi biết nó không cố tình hãm hại tôi. Nhưng những lời chọc ghẹo của lũ bạn trong lớp khiến tôi không thể ép mình làm hòa với con Xin được.
Gặp tôi ở đâu là những cái mồm độc địa lại nghêu ngao: “Bà già lấy le ông già / Chiều chiều dắt ra bờ sông…”.
Ngay cả thằng Sơn cũng ra rả khoét vào vết thương lòng của tôi: “Em ơi nếu mộng không thành thì sao / Mu chai thuốc chuột uống vô cho rồi đời”.
Suốt một thời gian dài như vậy.
18. Thầy Nhãn
Tôi chỉ hết giận con Xin từ ngày thầy Nhãn xách con roi mây đi lùng sục chú Đàn và chị Vinh.
Thầy đi lòng vòng ngoài hè nhà tôi, miệng sang sảng:
- Thằng Đàn đâu, ra đây tao bảo!
Lúc đó là buổi tối, tôi và thằng Tường đang ngồi chồm hổm dưới nền nhà.
Cả hai đang ngóc đầu nhìn vô gầm giường gọi con Cu Cậu ra ăn cơm vãi thì giọng thầy Nhãn bất thần dội vào tai rào rào như vãi đạn.
Ăn cơm xong, mẹ tôi qua nhà bà tôi để bàn chuyện chuẩn bị đám giỗ ông nội tôi nên chỉ có hai anh em tôi ở nhà.
Bụng thắt lại, hai đứa tôi sợ hãi ngó nhau.
- Mày biết chú Đàn ở đâu không? - Tôi thì thầm.
Tường lo lắng không kém gì tôi. Giọng nó bẹt đi như phát ra từ một cái loa bị hỏng:
- Giờ này chắc chú Đàn và chị Vinh đang ngồi ngoài bờ mương.
Cái mương Tường nói nằm ngay sau nhà thầy Nhãn, kế ruộng lúa. Tôi và nó thỉnh thoảng vẫn qua đó câu cá và soi bờ chắn giữa các đám ruộng để đặt lờ.
Tôi nói, và nghe ruột gan đang tan ra:
- Ngồi chơi ngoài đó, thầy Nhãn bắt gặp thì chết!
- Anh đừng lo! - Tường trấn an tôi bằng giọng run run - Thầy Nhãn làm ầm thế này, chú Đàn và chị Vinh đã kịp bỏ chạy rồi.
- Thằng Đàn nấp đâu? - Tiếng thầy Nhãn lại vang lên lồng lộng ngoài sân - Tao mà tóm được thì mày chết với tao!
Tôi rúm người lại, tâm trạng lúc đó chẳng khác nào một anh lính nhút nhát đang bị bao vây. Đã thế, súng hết đạn, dao găm lại rơi đâu mất trong khi quân địch loa kèn ầm ĩ, sắp sửa tấn công.
Quân địch tấn công thật. Hò hét một hồi không thấy động tĩnh gì, thầy Nhãn ập vào nhà như một cơn bão. Giọng thầy ầm ầm, có cảm giác mái nhà rung rinh sắp sập xuống:
- Mày dắt con Vinh trốn đâu rồi hả Đàn?
Thầy đứng giữa nhà, giận dữ quét mắt sang phải sang trái, tôi thấy rõ gò má thầy giần giật, và nếu lúc đó người thầy đột ngột bốc khói tôi cũng chẳng lấy gì làm ngạc nhiên.
Bắt gặp tôi và Tường đang ngồi thu lu dưới đất, thầy gằn giọng:
- Hai đứa bây ngồi đây làm gì? Có đứa nào thấy thằng Đàn đâu không?
Tôi nuốt nước bọt, cố tỏ ra ngoan ngoãn:
- Thưa thầy, con không biết ạ.
- Hừm, không biết!
Gầm gừ một câu, nhác thấy thằng Tường thầy sực nhớ ra tội đồng lõa của thằng này, liền cáu tiết vung roi vụt lên lưng nó:
- “Chim xanh” nè!
Thầy ra tay nhanh và mạnh đến mức Tường không kịp né. Tôi nghe một tiếng “bộp” và thấy thằng Tường giật nảy một cái, nó không kêu lên tiếng nào nhưng trông bộ tịch biết là đau lắm.
Đang điếng người, tôi chợt thấy thầy lia mắt sang tôi. Trong ánh đèn, tôi vẫn kịp thấy mắt thầy vằn những gân đỏ. Nhờ vậy tôi kịp vọt mình ra cửa trước khi ngọn roi của thầy quất xuống kèm theo tràng mắng mỏ:
- Còn thằng này nữa! “Gió mưa là bệnh của trời” nè!
Sau lần đó, tôi hiểu ra hôm trước thầy Nhãn bẹo tay tôi đau điếng không phải vì thầy ghét bỏ gì tôi mà vì thầy đang tức chú Đàn.
Chắc thầy đã đọc được hai câu thơ Nguyễn Bính trong lá thư chú Đàn gửi cho chị Vinh. Hành động của con Xin chỉ vô tình kích nổ quả bóng giận dữ trong lòng thầy thôi.
19. Thầy Nhãn đánh chú Đàn
Tôi nhớ hồi tôi tám tuổi, có một lão thầy bói ghé vào nhà tôi xin nước uống.
Áo quần bạc phếch, dáng người gầy gò khắc khổ, râu cằm ngắn và thưa, mặt mày xám xịt như suốt đời chỉ xực củ cải muối, lão ngồi tréo chân trên ghế uống từng ngụm nước trong chiếc ca nhựa vừa đưa mắt ngắm nghía hai anh em tôi.
Ca nước đó tôi chỉ uống vài tợp là hết, nhưng lão ngồi uống tì tì cả buổi. Trong khi uống, lão chẳng hé môi tiếng nào.
Nhưng trước khi đi, lão chỉ tay vào tôi, gật gù nói với mẹ tôi:
- Thằng bé này cẩn thận kẻo sau này chết đuối!
Tôi nghe lão phán, chẳng có cảm xúc gì nhưng mẹ tôi mặt xanh như tàu lá. Trán mẹ tôi chỉ giãn ra khi lão nói thêm:
- Qua mười tám tuổi, nếu không chết sông chết suối thì nó sẽ sống rất thọ.
Lão quay sang thằng Tường, ngoẹo cổ nhìn:
- Còn thằng bé này đẹp quá, nên bị con tạo ganh ghét. Số nó vất vả, nhưng có quý nhân phò trợ. Bà đừng lo, đời nó gặp nhiều tai nạn nhưng rốt cuộc đều vượt qua được hết.
Tôi chẳng biết những gì lão thầy bói phán chính xác được bao nhiêu phần trăm. Nhưng riêng chuyện thằng Tường gặp nhiều tai nạn thì bây giờ nhớ lại, tôi công nhận là lão nói đúng....